5100 Wisconsin Ave., N.W., Suite 400, Phone (202) 686-2210, Fax (202) 686-2216. pcrm@pcrm.org, www.pcrm.org
Người dịch: Trần Lan Hương, AADP Certified Health Coach
Nhiềungười Mỹ, kể cả một số người ăn chay, vẫn tiêu thụ một lượng lớn các sản phẩm từ Sữa. Sau đây là 8 lý do lớn nên lọai Sữa ra khỏi chế độ ăn của bạn.
1. LOÃNG XƯƠNG
Sữa được chào bán để ngăn ngừa loãng xương, nhưng các nghiên cứu lâm sàng lại cho thấy khác. Công trình nghiên cứu Sức khỏe trên các Y tá của ĐH Havard1 (the Harvard Nurses' Health Study) theo dõi hơn 75.000 phụ nữ trong suốt 12 năm cho thấy việc tăng tiêu thụ sữa không có hiệu quả bảo vệ đối với nguy cơ gẫy xương. Trên thực tế, việc tăng nạp canxi từ các sản phẩm sữa liên quan đến nguy cơ gẫy xương cao hơn. Một nghiên cứu của Australia2 cũng cho kết quả như vậy. Thêm vào đó, các nghiên cứu khác3,4 cũng không tìm thấy tác dụng bảo vệ xương từ canxi trong sữa. Bạn có thể tự giảm nguy cơ loãng xương cho mình bằng cách giảm ăn muối và đạm động vật5-7, tăng ăn rau và trái cây8, tập thể dục9, và đảm bảo nạp đủ canxi từ các thức ăn thực vật như các lọai rau lá màu xanh và đậu hạt, cũng như các sản phẩm tăng cường canxi như ngũ cỗc ăn sáng và nước trái cây.
2. BỆNH TIM MẠCH
Các sản phẩm từ sữa - bao gồm phomai, kem, sữa, bơ và sữa chua - cung cấp một lượng đáng kể cholesterol và chất béo trong bữa ăn của bạn10. Một chế độ ăn nhiều chất béo và chất béo bão hòa có thể làm tăng nguy cơ gây ra một số bệnh mãn tính trong đó có bệnh tim mạch. Một chế độ ăn chay ít chất béo loại bỏ các thực phẩm từ sữa, kết hợp với tập thể dục, bỏ thuốc lá, và kiểm sóat sự căng thẳng stress, không những có thể ngăn ngừa bệnh tim mà thậm chí còn có thể đảo ngược nó11. Các sản phẩm sữa không béo cũng có trên thị trường nhưng chúng lại gây ra những nguy cơ sức khỏe khác được lưu ý dưới đây.
3. UNG THƯ
Một số lọai ung thư, như ung thư buồng trứng, có liên quan đến việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Đường lactose trong sữa khi đi vào cơ thể được phân tách thành một lọai đường khác là galactose. Đến lượt mình, đường galactose lại được các men enzyme phân tách tiếp. Theo một nghiên cứu của Tiến sĩ Daniel Cramer và các đồng nghiệp tại ĐH Y Havard12, khi ta tiêu thụ nhiều các sản phẩm từ sữa vượt quá khả năng phân tách galactose của các enzyme, nó có thể tích lũy lại trong máu và ảnh hưởng đến buồng trứng của phụ nữ. Một số phụ nữ có lượng enzyme này đặc biệt thấp, và khi họ tiêu thụ thường xuyên các sản phẩm từ sữa, nguy cơ bị ung thư buồng trứng của họ có thể cao gấp 3 lần so với các phụ nữ khác.
Ung thư vú và tuyến tiền liệt cũng có liên quan đến việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa, được cho là ít nhất có liên quan một phần đến việc làm tăng một hợp chất có tên là IGF-I13-15. Chất IGF-I được tìm thấy trong sữa bò và đã được phát hiện với liều lượng tăng lên trong máu của những người thường xuyên tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Trong sữa bò còn có các dưỡng chất làm tăng lượng IGF-I. Một nghiên cứu gần đây cho thấy những nam giới có lượng IGF-I cao nhất có nguy cơ mắc ung thư tiền liệt tuyến cao hơn gấp 4 lần so với những người có lượng IGF-I thấp nhất14.
4. TIỂU ĐƯỜNG
Các chứng bệnh tiểu đường phụ thuộc insulin (tiểu đường típ 1 hay tiểu đường ở người trẻ) có liên quan đến việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Các nghiên cứu bệnh dịch học ở nhiều nước cho thấy một mối tương quan mạnh mẽ giữa việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa với các trường hợp mắc tiểu đường phụ thuộc insulin17,18. Năm 199218 các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng một lọai protein trong sữa kích họat một phản ứng tự miễn trong cơ thể, điều được cho là tác nhân phá hủy các tế bào sản sinh insulin của tuyến tụy.
5. KHÔNG DUNG NẠP ĐƯỜNG LACTOSE
Chứng không dung nạp Lactose phổ biến ở một số chủng tộc và ảnh hưởng đến khoảng 95% người Mỹ gốc châu Á, 74% người Mỹ bản xứ, 70% người Mỹ gốc Phi, 53% người Mỹ gốc Mêhicô và 15% người da trắng Caucasian19. Các triệu chứng bao gồm rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy và đầy bụng là do những người này không có các loại enzyme tiêu hóa đường lactose trong sữa. Hơn nữa, bên cạnh các triệu chứng không mong muốn này, những người uống sữa cũng tự đặt mình trước nguy cơ mắc các bệnh tật mãn tính khác.
6. NGỘ ĐỘC VITAMIN D
Việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa có thể không cung cấp một nguồn vitamin D ổn định và đáng tin cậy trong chế độ ăn. Nghiên cứu các mẫu sữa được chọn mẫu cho thấy có sự khác biệt đáng kể về lượng vitamin D, một số mẫu sữa chứa đến 500 lần lượng ghi trên nhãn trong khi một số mẫu khác lại có rất ít hoặc không hề có vitamin D20,21. Quá nhiều vitamin D có thể gây ngộ độc và có thể dẫn đến có quá nhiều canxi trong máu và nước tiểu, làm tăng hấp thụ nhôm trong cơ thể và gây lắng đọng canxi trong các mô mềm.
7. NHIỄM HÓA CHẤT
Các hócmôn tổng hợp như hócmôn tăng trưởng trên bò (rBGH) được sử dụng phổ biến trên bò sữa để tăng sản lượng sữa13. Do phải tiết ra một lượng sữa lớn trái với tự nhiên, kết quả cuối cùng là bò bị bệnh viêm tuyến vú. Việc chữa bệnh này cần dùng thuốc kháng sinh, và dư lượng kháng sinh và hócmôn này đã được tìm thấy trong mẫu sữa và các sản phẩm từ sữa bò. Các thuốc trừ sâu và dược phẩm khác cũng là những chất hay nhiễm trong các sản phẩm từ sữa.
8. CÁC LO NGẠI VỀ SỨC KHỎE ĐỐI VỚI TRẺ SƠ SINH VÀ TRẺ EM
Các chất đạm của sữa, chất đường của sữa, chất béo và chất béo bão hòa trong các sản phẩm từ sữa có thể gây ra những nguy cơ sức khỏe cho trẻ em và gây ra các bệnh mãn tính như béo phì, tiểu đường, và hình thành các mảng bám xơ vữa động mạch có thể dẫn đến bệnh tim. Viện Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị không cho trẻ dưới 1 tuổi uống sữa bò nguyên chất vì trẻ dùng nhiều sữa bò dễ bị thiếu sắt10. Các sản phẩm từ sữa bò có lượng sắt rất thấp. Nếu sữa bò trở thành một phần chính trong chế độ ăn của ai, người đó rất dễ bị thiếu sắt. Đau bụng cũng là một lo ngại khi dùng sữa bò. Cứ 5 em bé thì có 1 bé bị chứng đau bụng. Các bác sĩ nhi khoa đã biết từ lâu rằng nguyên nhân phổ biến là do sữa bò. Bây giờ chúng ta cũng đã biết, các bà mẹ đang cho con bú cũng dễ gây đau bụng cho con nếu các bà mẹ này dùng sữa bò. Các kháng thể của bò có thể truyền qua máu của mẹ đi vào sữa mẹ và truyền sang con22. Thêm vào đó, các bệnh dị ứng thức ăn cũng thường là do sử dụng sữa, đặc biệt là ở trẻ em. Một nghiên cứu gần đây23 cũng cho thấy sự liên quan giữa tiêu thụ sữa bò với bệnh táo bón mãn tính ở trẻ. Các nhà nghiên cứu khuyến cáo rằng tiêu thụ sữa làm đau vùng quanh hậu môn và đau dữ dội khi đi cầu dẫn đến bệnh táo bón.
Sữa và các sản phẩm từ sữa là không cần thiết trong chế độ ăn uống, và trên thực tế, có thể có hại cho sức khỏe trẻ em. Hãy theo một chế độ ăn lành mạnh bao gồm hạt ngũ cốc, trái cây, rau, đậu hạt và các thực phẩm ngũ cốc ăn sáng và nước trái cây được tăng cường dưỡng chất. Những thức ăn giàu dinh dưỡng này có thể dễ dàng giúp bạn đáp ứng đủ lượng canxi, kali, riboflavin và vitamin D cần thiết mà lại không có nguy cơ hại sức khỏe.
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Feskanich D, Willet WC, Stampfer MJ, Colditz GA. Milk, dietarycalcium, and bone fractures in women: a 12-year prospectivestudy. Am J Public Health 1997;87:992-7.
2. Cumming RG, Klineberg RJ. Case-control study of risk factors forhip fractures in the elderly. Am J Epidemiol 1994;139:493-505.
3. Huang Z, Himes JH, McGovern PG. Nutrition and subsequent hip fracture risk among a national cohort of white women. Am J Epidemiol 1996;144:124-34.
4. Cummings SR, Nevitt MC, Browner WS, et al. Risk factors for hip fracture in white women. N Engl J Med 1995;332:767-73.
5. Finn SC. The skeleton crew: is calcium enough? J Women’s Health 1998;7(1):31-6.
6. Nordin CBE. Calcium and osteoporosis. Nutrition 1997;3(7/8):664-86.
7. Reid DM, New SA. Nutritional influences on bone mass. Proceed Nutr Soc 1997;56:977-87.
8. Tucker KL, Hannan MR, Chen H, Cupples LA, Wilson PWF, Kiel DP. Potassium, magnesium, and fruit and vegetable intakes are associated with greater bone mineral density in elderly men and women. Am J Clin Nutr 1999;69:727-36.
9. Prince R, Devine A, Dick I, et al. The effects of calcium supplementation (milk powder or tablets) and exercise on bone mineral density in postmenopausal women. J Bone Miner Res 1995;10:1068-75.
10. Pennington JAT. Bowes and Churches Food Values of Portions Commonly Used, 17th ed. New York: Lippincott, 1998.
11. Ornish D, Brown SE, Scherwitz LW, Billings JH, Armstrong WT, Ports TA. Can lifestyle changes reverse coronary heart disease? Lancet 1990;336:129-33.
12. Cramer DW, Harlow BL, Willet WC. Galactose consumption and metabolism in relation to the risk of ovarian cancer. Lancet 1989;2:66-71.
13. Outwater JL, Nicholson A, Barnard N. Dairy products and breast cancer: the IGF-1, estrogen, and bGH hypothesis. Medical Hypothesis 1997;48:453-61.
14. Chan JM, Stampfer MJ, Giovannucci E, et al. Plasma insulin-like growth factor-1 and prostate cancer risk: a prospective study. Science 1998;279:563-5.
15. World Cancer Research Fund. Food, Nutrition, and the Prevention of Cancer: A Global Perspective. American Institute of Cancer Research. Washington, D.C.: 1997.
16. Cadogan J, Eastell R, Jones N, Barker ME. Milk intake and bone mineral acquisition in adolescent girls: randomised, controlled intervention trial. BMJ 1997;315:1255-60
17. Scott FW. Cow milk and insulin-dependent diabetes mellitus: is there a relationship? Am J Clin Nutr 1990;51:489-91.
18. Karjalainen J, Martin JM, Knip M, et al. A bovine albumin peptide as a possible trigger of insulin-dependent diabetes mellitus. N Engl J Med 1992;327:302-7.
19. Bertron P, Barnard ND, Mills M. Racial bias in federal nutrition policy, part I: the public health implications of variations in lactase persistence. J Natl Med Assoc 1999;91:151-7.
20. Jacobus CH, Holick MF, Shao Q, et al. Hypervitaminosis D associated with drinking milk. N Engl J Med 1992;326(18):1173-7.
21. Holick MF. Vitamin D and bone health. J Nutr 1996;126(4suppl):1159S-64S.
22. Clyne PS, Kulczycki A. Human breast milk contains bovine IgG. Relationship to infant colic? Pediatrics 1991;87(4):439-44.
23. Iacono G, Cavataio F, Montalto G, et al. Intolerance of cow’s milk and chronic constipation in children. N Engl J Med 1998;339(16):1100-4.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
Chân thành cảm ơn mọi góp ý của các bạn!